các xét nghiệm cần làm khi mang thai mẹ bầu cần phát biết, hãy theo dõi nhé!
1 – Xét nghiệm nước tiểu
Nước tiểu hoặc máu của người phụ nữ có thể được xét nghiệm.
Phụ nữ có thể chọn thực hiện xét nghiệm mang thai tại nhà. Đây là một bộ xét nghiệm nước tiểu có thể được mua tại một hiệu thuốc hoặc cửa hàng tạp hóa mà không cần toa bác sĩ.
Xét nghiệm có thể cho biết liệu một phụ nữ có mang thai hay không. Loại xét nghiệm này được gọi là xét nghiệm định tính. Nó chỉ có thể kiểm tra sự hiện diện của hormone mang thai, beta-hCG. Nếu xét nghiệm được thực hiện rất sớm trong thai kỳ, mức độ hormone có thể vẫn âm tính. Hầu hết các xét nghiệm mang thai tại nhà hiện tại có thể cho kết quả khả quan ngay lập tức sau giai đoạn kinh nguyệt đầu tiên mất.
Trong quá trình mang thai, nước tiểu vẫn được xét nghiệm.
Phụ nữ mang thai thường đi tiểu nhiều hơn so với trước khi có thai. Bởi vậy, việc xét nghiệm nước tiểu nên được tiến hành định kỳ trong thai kỳ. Nó giúp phát hiện các dấu hiệu bệnh tiểu đường trong thai kỳ như dư lượng glucose trong nước tiểu. Bệnh có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ và thai nhi, nhưng có thể điều chỉnh bằng chế độ dinh dưỡng, vận động thích hợp.
Dư đạm trong nước tiểu có thể là dấu hiệu bị nhiễm trùng, đặc biệt nếu kèm theo các triệu chứng phù hoặc cao huyết áp, mẹ bầu có nguy cơ tiền sản giật cao.
2 – Xét nghiệm máu
Xét nghiệm máu là 1 trong các xét nghiệm cần làm khi mang thai
Xét nghiệm máu sẽ xác định nồng độ hCG trong máu. Với xét nghiệm này sẽ cho biết phụ nữ đã có thai trong bao lâu. Nếu nồng độ hCG không tăng khi tiến triển qua thai kỳ, nó có thể cho thấy có vấn đề khi mang thai như mang thai ngoài tử cung với mức thấp hoặc cặp song sinh với mức độ cao.
Ngoài ra, xét nghiệm quan trọng trong thai kỳ chính là thử máu (CBC). Có 3 chỉ số quan trọng được tìm thấy trong kết quả thử nghiệm CBC đó là hemoglobin, hematacrit và số lượng tiểu cầu của thai phụ.
Hemoglobin là một loại protein trong máu cung cấp oxy cho các tế bào, hematacrit là dung tích hồng cầu trong cơ thể. Nếu hemoglobin hoặc hematacrit thấp là dấu hiệu mẹ bầu đang thiếu máu, thiếu sắt, cản trở sự phát triển của thai nhi. Cơ thể phụ nữ mang thai cần lượng sắt tăng gấp đôi người bình thường để mang oxy vào hồng cầu.
Ngoài việc kiểm tra các thành phần tế bào của máu, xét nghiệm máu cũng giúp phát hiện xem thai phụ có bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs) như HIV/AIDS, giang mai, herpes, viêm gan B, C… hay không.
3 – Siêu âm
Bác sĩ có thể sử dụng sóng âm thanh để kiểm tra các cấu trúc khung chậu như tử cung, buồng trứng và phôi thai hoặc thai nhi.
Xét nghiệm thai kì
Siêu âm ổ bụng
Một gel dẫn điện được đặt trên bụng, và một cây đũa cầm tay phát ra sóng âm thanh được di chuyển theo một mô hình có hệ thống để kiểm tra các cấu trúc bên trong. Xét nghiệm này đòi hỏi một bàng quang đầy đủ để các cơ quan bên trong được phồng ra khỏi xương chậu khi bàng quang đầy. Bệnh nhân có thể được yêu cầu uống 2-3 ly nước trước khi bắt đầu siêu âm này.
Bác sĩ có thể chụp cắt âm đạo trong ba tháng đầu để đảm bảo mang thai nằm trong tử cung và để loại bỏ thai ngoài tử cung. Nó cũng có thể hình dung nhịp tim và chuyển động của thai nhi, và do đó loại trừ sẩy thai.
Việc siêu âm âm đạo cũng có thể xác định nếu có nhiều hơn một thai kỳ trong tử cung, đánh giá độ tuổi và sự phát triển của thai nhi, kiểm tra vị trí của thai trong tử cung, và, từ 16 đến 20 tuần, xác định giới tính của thai nhi.
Khám siêu âm giúp các bác sĩ thiết lập ngày dự sanh chính xác. Ngày dự sanh có thể được dự đoán trong vòng hai đến bốn ngày nếu siêu âm ban đầu được thực hiện sớm trong thai kỳ.
Siêu âm tử cung (endovaginal hoặc transvaginal)
Một đũa dài, mỏng, sóng âm thanh được bao phủ bởi một bao cao su chứa gel dẫn điện được đặt bên trong âm đạo. Loại siêu âm này thường được thực hiện sớm trong thai kỳ để xác định vị trí trong tử cung của thai nhi. Loại siêu âm này cũng cung cấp thêm chi tiết về cấu trúc cổ tử cung của người phụ nữ và giải phẫu phôi thai sớm.
4. 10 tuần – Kiểm tra CVS
Xét nghiệm chọc hút gai nhau (VCS) là phương pháp lấy mẫu lông nhung màng đệm để phát hiện các vấn đề về nhiễm sắc thể. CVS được thực hiện trong khoảng tuần thứ 10 đến tuần 12 của thai kỳ, có mục đích phát hiện sớm các bất thường của thai nhi trước khi chọc ối.
Xét nghiệm này thường được đề nghị cho thai phụ trên 35 tuổi và gia đình có tiền sử mắc các bệnh về gen hoặc đã từng sinh con không bình thường.
5. 16 tuần – Chọc dò nước ối
Chọc ối là thử nghiệm chẩn đoán phổ biến nhất của hầu hết thai phụ, bởi nước ối chứa các tế bào từ da của em bé và các cơ quan trong tử cung của mẹ. Đây là phương pháp sử dụng để chẩn đoán giới tính thai nhi, tầm soát Down và một số khuyết tật ống thần kinh… Chọc ối thường được thực hiện khoảng giữa tuần thứ 16 đến 20.
Phụ nữ trên 35 tuổi được khuyến nghị tiến hành chọc ối vì bất thường nhiễm sắc thể sẽ tăng lên theo tuổi của người mẹ. Những người có tiền sử sinh con khuyết tật hoặc gia đình có người bị dị tật bẩm sinh cũng nên làm xét nghiệm chọc ối.
6. 20 tuần – Sàng lọc AFP
Xét nghiệm Alpha-fetoprotein (AFP) thường được thực hiện từ tuần thứ 15 đến 20 của thai kỳ. Nó là một chất của thai nhi và được tìm thấy trong nước ối, máu thai nhi và máu của người mẹ. Mức độ bất thường của AFP có thể chỉ ra một khiếm khuyết về ống thần kinh, hội chứng Down, thiếu ôi ở mẹ hay chỉ ra các biến chứng sau này như tăng nguy cơ thai chết lưu.
Xét nghiệm AFP giúp bác sĩ sản khoa quan sát chặt chẽ hơn quá trình mang thai và sự phát triển của thai nhi để đưa ra những chỉ dẫn tốt nhất cho thai phụ.
Xét nghiệm thai kì
7. Tuần 28 – Kiểm tra glucose
Phụ nữ mang thai nên xét nghiệm dung nạp glucose và tiểu đường thai kỳ giữa tuần 25 và 28. Những thai phụ có lượng glucose cao sau các xét nghiệm sàng lọc sẽ được thử nghiệm dung nạp glucose. Nếu kết quả cho mức độ đường cao, người mẹ cần được theo dõi cẩn thận.
Thai nhi có thể bị quá cân, sinh non, dị tật bẩm sinh và các biến chứng nghiêm trọng do áp lực máu khi người mẹ mắc tiểu đường không kiểm soát. Điều này có thể do thai nhi sản xuất thêm insulin từ lượng đường dư trong máu của mẹ, các insulin thêm vào được lưu trữ dưới dạng mô mỡ, thường ở vai hoặc người bé. Hầu hết phụ nữ phát triển bệnh tiểu đường khi mang thai sẽ trở lại bình thường trong vòng vài ngày sau khi sinh.
8. 36 tuần – Strep nhóm B
Liên cầu nhóm B (GBS) là một loại nhiễm trùng do vi khuẩn có thể được tìm thấy trong âm đạo hoặc trực tràng của một phụ nữ mang thai. Kiểm tra này được thực hiện giữa tuần 35 và lần thứ 37 của thai kỳ.
Học viện Nhi khoa Mỹ cũng khuyến cáo tất cả phụ nữ có yếu tố nguy cơ trước khi được sàng lọc GBS (ví dụ, phụ nữ sinh non đã bắt đầu trước 37 tuần tuổi thai) cần được điều trị bằng thuốc kháng sinh IV để giảm thiểu nguy cơ thai nhi bị nhiễm liên cầu khuẩn.
Tham khảo – epregnancy
Đọc thêm
Bạn có quan tâm tới việc nuôi dạy con không? Đọc các bài báo chuyên đề và nhận câu trả lời tức thì trên app. Tải app Cộng đồng theAsianparent trên IOS hay Android ngay!